Thứ Sáu (19/04/2024)

Cấu thành tội phạm là gì? Các yếu tố cấu thành tội phạm?

Mẹo nhỏ: Tham gia nhóm hỗ trợ AZLAW để được cùng nhau hỏi đáp và hỗ trợ các vấn đề liên quan trên Facebook tại đây hoặc Zalo tại đây

Cấu thành tội phạm là gì? Các yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định pháp luật

Tội phạm là những người vi phạm quy định pháp luật của luật hình sự gây nguy hiểm cho xã hội. Để xác định một hành vi có phải là tội phạm hay không thì cần phải xét xem hành vi đó có đủ các dấu hiệu để cấu thành tội phạm hay không? Sau đây chúng tôi xin phân tích về các dấu hiệu của một tội phạm. Tội phạm có 4 dấu hiệu chủ yếu như sau:

Bảng cấu thành tội phạm

1. Chủ thể: Chủ thể của tội phạm có thể là cá nhân hoặc pháp nhân

2. Khách thể: Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm phạm. Bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều gây thiệt hại hoặc hướng tới gây thiệt hại cho quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ. Không gây thiệt hại hoặc hướng tới gây thiệt hại cho đối tượng là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì hành vi khách quan không có tính gây thiệt hại và do vậy cũng không có tội phạm..Khách thể của tội phạm bao gồm khách thể chung, loại, trực tiếp

3. Mặt chủ quan: Mặt chủ quan của cấu thành tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, phản ánh trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra gồm:

Tính có lỗi: Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, thể hiện dưới dạng cố ý và vô ý. Nếu không có lỗi thì không bị coi là tội phạm.

Lỗi cố ý:
Cố ý trực tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra.
– Cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Lỗi vô ý:
Lỗi vô ý do quá tự tin: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Lỗi vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Tính nguy hiểm cho xã hội: Tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2017 quy định

Điều 8. Khái niệm tội phạm
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.

Như vậy tính nguy hiểm là dấu hiệu đầu tiên để xác định được hành vi đó có phải là tội phạm hay không, dấu hiệu về tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng, quyết định các dấu hiệu khác.

Tính trái pháp luật hình sự: Điều 2 Bộ luật hình sự 2017 quy định về trách nhiệm hình sự như sau:

Điều 2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

Như vậy bất cứ hành vi nào không được quy định là một tội trong bộ luật Hình sự thì việc thực hiện hành vi đó đều không phải là tội phạm.

Tính phải chịu hình phạt: Chỉ những hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, hình phạt được coi là cơ chế răn đe, giáo dục đối với tội phạm. Nếu tính nguy hiểm của hành vi phạm tội tỷ lệ thuận với mức độ khung hình phạt. Vì thế, một hành vi được coi là tội phạm khi nó thỏa mãn đủ bốn dấu hiệu nêu trên.

4. Mặt khách quan:

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả của hành vi nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, hoàn cảnh phạm tội… Thông qua biểu hiện bên ngoài ở mặt khách quan của tội phạm có thể đánh giá được tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm:
Hành vi: Hành vi là dấu hiệu bắt buộc ở tất cả các tội phạm. Hành vi bao gồm hành vi hành động (ví dụ: hành vi của tội giết người, tội cướp tài sản,…) và hành vi không hành động (ví dụ: hành vi của tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng,…)
Hậu quả: Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc ở tất cả tội phạm. Ví dụ, tội hiếp dâm thì hậu quả không phải là dấu hiệu định tội, tội vứt bỏ con mới đẻ thì hậu quả là dấu hiệu định tội.
– Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm.

Liên hệ để được hỗ trợ

Bài viết liên quan