Thứ tư (11/09/2024)

Nguồn nguy hiểm cao độ là gì? Cách xác định nguồn nguy hiểm cao độ

Mẹo nhỏ: Tham gia nhóm hỗ trợ của AZLAW để được hỗ trợ và tư vấn MIỄN PHÍ các vấn đề liên quan trên Facebook tại đây hoặc liên hệ dịch vụ qua Zalo tại đây.

Nguồn nguy hiểm cao độ là gì? Thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ? Các quy định về nguồn nguy hiểm cao độ và trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Nguồn nguy hiểm cao độ là gì? Thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ? Các quy định về nguồn nguy hiểm cao độ và trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

Nguồn nguy hiểm cao độ là gì?

Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật do đặc tính của nó nên trong quá trình chiếm hữu, khai thác, quản lý,vận chuyển chúng luôn chứa đựng tiềm ẩn những nguy hiểm khách quan, dễ xảy ra thiệt hại ở mức độ lớn cho những người xung quanh. Vậy thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ? Theo quy định tại khoản 1 điều 601 Bộ luật dân sự 2015 quy định:

1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

Có thể thấy, nguồn nguy hiểm cao độ hoàn toàn không được mô tả rõ ràng theo quy định này mà chỉ hướng dẫn chung chung về các khái niệm này. Trước đó theo hướng dẫn của nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP (hướng dẫn bộ luật dân sự 2005 đã hết hiệu lực) việc xác định nguồn nguy hiểm cao độ như sau:

1. Xác định nguồn nguy hiểm cao độ
a) Khi có phương tiện giao thông, công trình, vật chất hoặc loại thú nào đó gây ra thiệt hại, để có căn cứ áp dụng các khoản 2, 3 và 4 Điều 623 BLDS xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì phải xác định nguồn gây ra thiệt hại có phải là nguồn nguy hiểm cao độ hay không.
b) Để xác định nguồn nguy hiểm cao độ cần phải căn cứ vào khoản 1 Điều 623 BLDS và văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan hoặc quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực cụ thể đó.
Ví dụ: Để xác định phương tiện giao thông cơ giới đường bộ thì phải căn cứ vào Luật Giao thông đường bộ. Theo quy định tại điểm 13 Điều 3 Luật giao thông đường bộ thì phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật.
2. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
a) Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm là đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ.
b) Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thỏa thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường.
Ví dụ: Các thỏa thuận sau đây là không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường:
– Thỏa thuận cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
– Thỏa thuận chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước, sau đó người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền đã bồi thường;
– Ai có điều kiện về kinh tế hơn thì người đó thực hiện việc bồi thường thiệt hại trước.
Trong trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không theo đúng quy định của pháp luật mà gây thiệt hại, thì chủ sỡ hữu phải bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: Chủ sở hữu biết người đó không có bằng lái xe ô tô, nhưng vẫn giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
c) Về nguyên tắc chung chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
– Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
Ví dụ: Xe ô tô đang tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật, thì bất ngờ có người lao vào xe để tự tử và hậu quả là người này bị thương nặng hoặc bị chết. Trong trường hợp này chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó không phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ (xe ô tô) gây ra.
– Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cần chú ý là trong trường hợp pháp luật có quy định khác về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
d) Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật).
Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
đ) Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông đã gây tai nạn và gây thiệt hại thì cần phải phân biệt:
– Nếu B chỉ được A thuê lái xe ô tô và được trả tiền công, có nghĩa B không phải là người chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà A vẫn chiếm hữu, sử dụng; do đó, A phải bồi thường thiệt hại.
– Nếu B được A giao xe ô tô thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa A không còn chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà B là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó, B phải bồi thường thiệt hại. Nếu trong trường hợp này được sự đồng ý của A, B giao xe ô tô cho C thông qua hợp đồng cho thuê lại tài sản, thì C là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó; do đó, C phải bồi thường thiệt hại.

Như vậy, bộ luật dân sự 2015 không quy định cụ thể nhưng khi xác định nguồn nguy hiểm cao độ phải theo quy định pháp luật quản lý nguồn nguy hiểm cao độ đó.

Trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Việc bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hiện tại được quy định tại điều 601 bộ luật dân sự 2015 cụ thể:

Điều 601. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử dụng, bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật.
2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.

Có thể thấy trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại có những lưu ý sau:
– Không có lỗi vẫn phải bồi thường (trừ trường hợp lỗi cố ý bên bị thiệt hại hoặc bất khả kháng)
– Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ có trách nhiệm với nguồn nguy hiểm cao độ

Nhầm lẫn trong thực tiễn về nguồn nguy hiểm cao độ

Trên thực tế, đã có sự nhầm lẫn trong việc xác định trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi người áp dụng pháp luật không phân biệt được thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ. Không ít trường hơp cứ thấy có hành vi trái pháp luật của con người gây thiệt hại, hành vi gây thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ là xác định thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Ba vụ việc sau đây là những điễn hình cụ thể:

*Vụ việc thứ nhất: N ký hợp đồng với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại và dịch vụ TC (Công ty TC) về việc thuê xe ô tô tự lái (loại xe 4 chỗ ngồi). Theo hợp đồng, Công ty TC cho N thuê xe ô tô 03 ngày (từ ngày 05/4 đến 07/4/2018), giá mỗi ngày 100.000 đồng. Khoảng 12 giờ ngày 06/4/2018, N điều khiển xe ôtô lưu thông trên Quốc lộ 1A theo hướng Bắc – Nam, đến địa phận xã H, huyện Đ, tỉnh Q, do chạy quá tốc độ, đi không đúng phần đường nên đã tông vào xe đạp do chị V điều khiển đi ngược chiều gây tai nạn. Hậu quả, chị V tử vong tại chỗ. Với hành vi trên, Toà án nhân dân huyện Đ kết án N 12 tháng tù về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 và áp dụng Điều 601 BLDS buộc Công ty TC (do anh B làm đại diện) bồi thường cho gia đình nạn nhân V số tiền 70 triệu đồng (Toà án xác định Công ty TC là chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, phải chịu trách nhiệm BTTH cho người bị hại).

Theo tác giả, về trách nhiệm dân sự trong vụ án này, việc Toà án áp dụng Điều 601 BLDS năm 2015 để buộc Công ty TC BTTH cho thân nhân gia đình chị V là không đúng qui định của pháp luật. Như đã phân tích ở trên về điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để có thể áp dụng Điều 601 BLDS về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, cần xác định rõ: Thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ? Thiệt hại có phải do “tự thân” nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay không? Đối với vụ án trên, thiệt hại xảy ra là do hành vi trái pháp luật của N. Hay nói cách khác, hành vi trái pháp luật của N (điều khiển xe ôtô chạy quá tốc độ và đi không đúng phần đường) là nguyên nhân trực tiếp, quyết định gây ra thiệt hại về tính mạng đối với chị V. Xe ôtô do N thuê của Công ty TC là nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng trong vụ án này xe ôtô là phương tiện liên quan đến việc gây ra thiệt hại chứ bản thân sự hoạt động tự thân của xe ôtô không gây ra thiệt hại. Mặt khác N là người được chủ sở hữu chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa Công ty TC không còn chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà N là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó, N là chủ thể phải chịu trách nhiệm BTTH.

Như vậy, trách nhiệm BTTH trong vụ án này là trách nhiệm BTTH thông thường do hành vi trái pháp luật của con người gây ra chứ không phải BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là N chứ không phải Công ty TC; căn cứ pháp luật để áp dụng khi xác định chủ thể phải bồi thường là các Điều 584, Điều 591 của BLDS năm 2015.

*Vụ việc thứ hai: Khoảng 16 giờ ngày 25/6/2018, sau khi uống nhiều rượu cùng bạn bè tại quán, Đ điều khiển xe mô tô đi trên Quốc lộ 1A theo hướng Nam – Bắc về nhà mình ở thị trấn H, huyện V. Khi đến km 755+500, do quá say rượu, không làm chủ bản thân nên Đ điều khiển xe chạy từ bên phải sang bên trái đường theo chiều đi của mình và tông vào xe ô tô do anh K điều khiển (xe ô tô thuộc quyền sở hữu của K) đi ngược chiều gây tai nạn. Hậu quả: Đ tử vong tại chỗ. Các cơ quan tiến hành tố tụng huyện V xác định tai nạn xảy ra hoàn toàn do lỗi (vô ý) của Đ nên quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Gia đình Đ khởi kiện về dân sự yêu cầu Tòa án giải quyết buộc K phải BTTH. Tòa án huyện V đã áp dụng Điều 601 BLDS buộc K bồi thường cho gia đình nạn nhân Đ số tiền 40 triệu đồng.

Việc buộc K phải BTTH cho gia đình Đ theo lập luận của Tòa án V là căn cứ vào hướng dẫn tại điểm 2 mục III Nghị quyết 03/2006. Điểm 2 mục III nghị quyết này đưa ra ví dụ để hướng dẫn cho trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phải BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp: “Xe ô tô đang tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật thì bất ngờ có người lao vào xe để tự tử và hậu quả là người này bị thương hoặc bị chết”. Quan điểm của Tòa án này cho rằng, ví dụ trên chỉ loại trừ trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; còn trong vụ việc này lỗi của người bị thiệt hại là lỗi vô ý nên trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ vẫn đặt ra.

Theo tác giả, cách hiểu về Điều 601 BLDS của Tòa án V là không đúng. Bởi lẽ cũng như đã phân tích ở trên, thiệt hại xảy ra trong vụ việc này là do hành vi trái pháp luật của con người (nạn nhân Đ) chứ không phải do hoạt động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ (xe ô tô của anh K) gây ra. Vì vậy, chỉ có thể xem xét trách nhiệm dân sự thông thường do hành vi trái pháp luật của con người gây ra, trong đó lỗi là một trong bốn điều kiện bắt buộc. Trong vụ việc này, anh K không có lỗi đối với cái chết của nhận nhân Đ nên không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Việc giải quyết BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến phương tiện tham gia giao thông ở chúng ta hiện nay theo kiểu khi tai nạn xảy ra, xe lớn phải bồi thường cho xe nhỏ là không phù hợp với pháp luật, trừ khi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ và người bị thiệt hại có thỏa thuận.

Mặt khác, ví dụ mà Nghị quyết 03/2006 đưa ra trên đây là nhằm chỉ để hướng dẫn loại trừ trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại. Tuy nhiên, ví dụ này còn có yếu tố chưa hợp lý vì có thể dẫn đến cách hiểu loại trừ trường hợp người bị thiệt hại cố ý lao vào xe ô tô tự tử (lỗi cố ý), thì mọi thiệt hại liên quan đến xe ô tô gây ra đều áp dụng trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Cách hiểu như vậy rõ ràng là không phù hợp cả về phương diện lý luận và tinh thần luật thực định.

Như vậy, trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thuộc chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Các khoản bồi thường trong trường hợp này cũng bao gồm BTTH về vật chất và khoản bù đắp tổn thất về tinh thần tương ứng với thiệt hại thực tế xảy ra. Mức bồi thường và cách thức tính toán các khoản bồi thường được chấp nhận tương tự như các trường hợp yêu cầu BTTH về tính mạng, sức khỏe, tài sản./.

Liên hệ để được hỗ trợ

Bài viết liên quan